Phân tích: Viếng lăng Bác - Viễn Phương
“Bác Hồ”- tiếng gọi sao
mà thân thương đến thế! Người là một nguồn cảm hứng bất tận
trong thơ ca Việt Nam,
thơ về Người rất nhiều nhưng mỗi bài
thơ lại dẫn ta đến những
vùng đất khác
nhau. Thật vậy, nếu
“Sáng tháng năm” của Tố Hữu là
tình cảm tha
thiết, sôi
nổi của nhà
thơ với Bác
khi ở chiến khu,
hay “Đêm nay
Bác không ngủ” của nhà
thơ Minh
Huệ là niềm xúc động của ông
trước tình
thương bao
la của nguồn sáng
dân tộc với mọi người,...Trong
khi đó” Viếng lăng Bác”
của Viễn Phương lại là
bài ca chân thành, cảm động của nhà thơ đối với Người, và có lẽ đây chính là một trong những bài thơ hay nhất viết về Người!
Viễn Phương là
một
trong những cây
bút có mặt sớm nhất của lực lượng giải
phóng miền Nam
trong thời kì
kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân
tộc. Bài
thơ” Viếng lăng Bác”
được in
trong tập” Như mây mùa
xuân”( 1978), bài thơ ra đời khi cuộc kháng chiến chống Mĩ thắng lợi, đất nước được thống nhất và lăng Chủ tịch cũng vừa được khánh thành năm 1976.
Bài thơ mở đầu thật tự
nhiên, như một lời kể chuyện mà
chứa chan
trong đó là
biết bao
xúc cảm của nhà
thơ:
“Con ở miền Nam
ra thăm lăng Bác”
Giọng điệu câu
thơ thật nhẹ
nhàng, thiết tha
mà sâu lắng, với việc sử dụng
cách xưng hô
thân thiết
“con”- “Bác” nghe thật thân thiết, gắn bó như người một nhà- nơi mà họ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách, cùng nhau trao nhau những yêu
thương đầm ấm, cũng như có nhà
thơ từng viết:
“Người là
cha, là bác, là anh
Quả tim lớn bọc
trong dòng máu đỏ”
Bác đã mất...
Nhưng không,
trong lòng Viễn Phương cũng như hàng
triệu người con đất Việt
khác, Bác mãi sống trong lòng chúng ta! Tác giả đã dùng
từ “thăm”, một cách
nói giảm nói
tránh đầy tinh
tế như muốn nhấn mạnh rằng Bác
vẫn còn
sống và đây chỉ là một chiến thăm từ miền Nam.
Chuyến thăm từ miền đất đau thương, quật cường
trong bao năm gian
khó kháng chiến chống Mĩ, nơi mà Bác
đã gửi gắm biết bao
yêu thương, niềm tin
và hi vọng cũng là
nói gửi gắm yêu
thương của hàng
vạn người dân
nơi đây đến Bác
“Bác nhớ miền Nam
nỗi nhớ nhà/
Miền Nam
mong Bác nỗi mong
cha”.
“Đã thấy
trong sương hàng
tre bát ngát
Ôi!
Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão
táp mưa sa đứng thẳng
hàng”
Chẳng phải tự nhiên
mà Viễn Phương nhắc tới những
hàng tre, ta đều biết rằng tre
là loài cây dẻo dai,
bất chấp mọi khó
khăn của
thiên nhiên mà chúng vẫn kiên cường chính vì vậy nó đã thành biểu tượng cao đẹp nhất của người dân Việt Nam ta. Hình ảnh tre đã có trong “Cây tre Việt Nam”
của Nguyễn Duy
hay “Tre Việt Nam”
của Thép
Mới đều mạnh mẽ như vậy và
tre của Viễn Phương cũng không
ngoại lệ:” Bão
táp mưa sa đứng thẳng
hàng”. Thán từ “Ôi!”
như để bộc lộ cảm xúc,
một cảm xúc
mãnh liệt, tha
thiết khi
nhìn thấy lại hàng
tre bất khuất muôn
thuở trong
kháng chiến ngày
nào của dân
tộc khi
mà” Tre giữ làng,
giữ nước, giữ mái
nhà tranh, giữ đồng lúa
chín”. Tre của Viễn Phương còn
ẩn dụ cho
những người lính
canh tận tuỵ canh
giữ chốn
thiêng liêng, bảo vệ giấc ngủ của Người.
Khổ thơ tiếp theo
chính là cảm xúc
của Viễn Phương khi
hoà vào dòng người thăm lăng Bác.
“Ngày
ngày mặt trời đi qua
trên lăng
Thấy một mặt trời
trong lăng rất đỏ”
Mặt trời
chính là nguồn sáng
bất tận của vũ trụ, nó
không thể thiếu trên
trái đất này được. Bác
cũng vậy, Bác
cũng không
thể thiếu
trong con đường cứu nước trường kì
của dân
tộc. Nếu ánh
sáng của mặt trời soi
sáng đường đi, giúp
sinh vật phát
triển, lớn lên
còn mặt trời
trong lăng kia
đã soi
sáng cho cách mạng Việt Nam, soi sáng cho tâm can lòng người,
chính mặt trời ấy đã cứu biết bao
sinh mệnh trước chiến
tranh đau thương, và
ánh dương ấy dẫn ta đến niềm vui,
hạnh
phúc... Bác được Viễn Phương ngợi ca
như mặt trời- thứ ánh
sáng bật diệt của thế gian,
phải chăng nhà
thơ đang gửi gắm một niềm tin
về sự trường tồn mãi
mãi của Người đối với đất nước. Với nghệ thuật nhân
hoá” Thấy một mặt trời
trong lăng rất đỏ” đó như một đòn bẩy ngợi ca
Bác, ngay cả mặt trời vĩ đại của vụ trụ cũng phải ngước nhìn
sự sáng
bừng vĩ đại
trong lăng
kia. Mặt trời “rất đỏ” đã gợi cho
ta đến trái
tim nhiệt huyết của Bác,
một trái
tim nhiệt huyết với cách
mạng, với nhân
dân, với đất nước,...
“Ngày
ngày dòng người đi
trong thương nhớ
Kết
tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
“Ngày
ngày” được lặp lại hai
lần như thể hiện sự nối tiếp thời
gian, tạo một nhịp điệu chẫm rãi
và rất lắng sâu
của dòng
người đi thăm lăng Bác.
Và rồi Viễn phương đã khéo
léo sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác, dường như những con
người ấy đi ”trong
thương nhớ” và đó là
niềm thương nhớ khôn
nguôi đối với Người, để rồi họ” kết
tràng hoa” gửi tặng đến Bác,
đó là
những
tràng hoà đẹp nhất, thơm nhất,
lung linh nhất để tỏ lòng
biết ơn.
“ kết
tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Ở đây “bảy mươi chín
mùa xuân” không những chỉ tuổi của Bác mà tác giả còn nhấn mạnh một điều rằng trong bảy mươi chín mùa xuân ấy Bác đã không ngừng cống hiến hết mình để mang tới biết bao mùa xuân ấm êm hạnh phúc cho muôn dân và giờ đây dòng
người kia
muốn tỏ lòng
biết ơn tới Bác
bằng những
bông hoa tươi thắm nhất.
Đến khổ thơ tiếp, cảm xúc
của nhà
thơ thật mãnh
liệt biết bao
khi thấy Người,
nhìn thấy bị cha
già kính yêu của dân
tộc:
“Bác nằm
trong giấc ngủ bình
yên
Giữa một vầng trăng sáng
dịu hiền”
Tác giả lại một lần nữa sử dụng nghệ thuật nói
giảm nói
tránh, chẳng là
Bác chỉ mệt quá
chỉ ngủ chút
thôi? Cả cuộc đời Bác
có lẽ chẳng có
nổi một giấc ngủ yên bời vì
Bác lo cho nước nhà,
cho Tổ quốc và
Bác” chỉ viết quên
mình cho tất cả”. Câu
thơ như khẳng định lại Bác
mãi sống
trong lòng nhân dân Việt Nam, cũng như Tố Hữu đã từng viết:
“Suốt cuộc đời Bác
có ngủ yên đâu
Nay
Bác ngủ chúng
con canh giấc ngủ”
Chúng
ta đều biết rằng,
trong thơ của Bác
trăng đã thành
tri kỉ và cũng đã từng có
người nói
rằng:” thơ của Bác đầy trăng”. Từ chiến khu
Việt Bắc” Trăng lồng cổ thụ bóng
lồng
hoa” rồi đến lúc
bàn việc
quân” Khuya về bát
ngát trăng ngân
đầy thuyền” hay
là cả khi
trong tù” Người ngắm trăng soi
ngoài cửa sổ / Trăng nhòm
khe cửa ngắm nhà
thơ”. Và
giờ đây khi
đã nhắm mắt, trăng vẫn luôn
theo Bác, vẫn luôn
là người bạn tri
kỉ của Người.
“Vẫn biết trời xanh
là mãi mãi
Mà sao
nghe nhói ở trong
tim”
Viễn phương lại một lần nữa cho
ta thấy cách
sử dụng
ngôn từ khéo
léo của mình
qua cách nói” Vẫn biết- Mà sao” khiến người đọc đau nhói vô cùng khi mà không thể phủ nhận một quy
luật của tạo hoá đó là có
sinh có tử. “Trời
xanh”- biểu tượng vĩnh hằng của thiên
nhiên, vũ trụ và đó cũng là ẩn dụ cho
Bác. Người vẫn còn
sống với non
sông, dân tộc, còn
mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam cũng như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Bác
còn đó lớn mênh
mông
Trời xanh
biển rộng ruộng đồng nước non”
Dù lí
trí vẫn tin
là thế nhưng hàng
triệu con đất Việt vẫn
không nguôi đau xót,
tiếc thương trước sự ra đi của Người. Nỗi đau mà
quặn thắt, tê
tái tận đáy sâu
tâm hồn như hàng
nghìn mũi kim đâm vào
trái tim thổn thức của nhân
dân ta, và rồi
chính sự ra đi của Bác
cũng khiến thiên
nhiên nhỏ lệ tiếc thương:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
“Đời tuôn
nước mắt trời tuôn
mưa”
Đến bên Bác để khóc, người con miền Nam đã vô cùng xót đau, thương tiếc cứ trào dâng rồi vỡ oà trong lời nguyện ước của nhà thơ trước lúc ra về:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”
Bao tình yêu thương , nỗi nhớ giờ lại càng đau hơn bởi ông sắp phải xa Bác, xa người cha kính yếu.... Và rồi trong dây phút nghẹn ngào ấy, tác giả có những ước nguyện hoá thân rất đỗi bình dị và khiêm nhường. Ông chỉ muốn hoá thân thành con chim nhỏ bé để hót những âm thanh thật trong trẻo cho Người nghe mỗi ngày và ông cũng chỉ muốn hoá thành đoá hoa, gửi những hương thơm bát ngát quanh lăng. Và một lần nữa hàng tre lại xuất hiện ở cuối bài thơ tạo kết cấu đầu cuối tương ứng trọn vẹn. Nếu như đầu bài cây tre xuất hiện với hình tượng, phẩm chất rất Việt Nam của nó” Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” thì ở đây hàng tre lại được nhà thơ nhấn mạnh phẩm chất”trung hiếu”. Đó như một điều khắc cốt ghi tâm những gì Bác đã nói” Trung với nước, hiếu với dân”. Cả khổ thơ Viễn Phương đã dùng nghệ thuật ẩn chủ ngữ, đó chính là để khẳng định một điều rằng ước nguyện trên không chỉ của riêng ông mà còn biết bao người con Việt Nam khác nữa. Họ luôn thực hiện những lời Bác dạy: quyết tâm theo lí tưởng, đi theo sự nghiệp cách mạng đúng đắn của Người.
Bài thơ có giọng điệu trầm lắng, trang trọng, tha thiết với nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc. Bài thơ như chạm đến trái tim người đọc, để lại trong họ niềm xúc động sâu xa trong một nỗi buồn man mác: ôm cả non sông một kiếp người, Bác đã đi rồi sao Bác ơi!