Phân tích: Làng (phân tích nhân vật ông Hai) - Kim Lân
Nhà văn Nguyễn Minh
Châu từng quan niệm: “Văn học và đời sống là
hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là
con người". Văn chương lấy con
người làm đối tượng phản ánh
thay cho hiện thực đời sống.
Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì
và thể hiện như thế nào
trong tác phẩm thì điểm xuất phát
và đích đến cuối cùng
vẫn là
cõi nhân sinh, mục tiêu cao cả nhất của nhà
văn vẫn là
viết “một áng
văn
trung thực và giản dị về con
người” (Chữ dùng
của
Hemingway). Với mỗi một tác
phẩm, người đọc lại có dịp
chiêm nghiêm về những con
người khác
nhau. Trong tác phẩm "Làng", nhà văn Kim
Lân đã tạc nên
những
trang viết neo đậu mãi
trong tâm hồn chúng ta về nhân
vật ông
Hai - một trái tim yêu làng tha thiết, một linh
hồn yêu
nước nồng
nàn.
Kim Lân
là một trong số những cây
bút truyện ngắn dù để lại một số lượng tác
phẩm
không nhiều nhưng
sáng tác nào của ông cũng vững
vàng nơi lòng người và
thách thức quy luật băng hoại của thời
gian. Nguyên Hồng từng nhận xét
: Kim Lân là nhà văn một lòng
đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu
nguyên thuỷ” của cuộc sống
nông thôn. Bằng giọng văn chân
thực, giản dị, từng
trang viết của Kim
Lân đong đầy bóng
dáng làng quê và con người Việt Nam.
Truyện "Làng" được sáng
tác trong những năm đầu của
kháng chiến chống
Pháp, lần đầu ra mắt bạn đọc trên
"Tạp chí Văn nghệ"
năm
1948. Lấy bối cảnh cuộc tản cư trong
những năm đầu
kháng chiến, tác phẩm xoay
quanh những chuyển biến
trong tâm trạng của nhân
vật ông
Hai. Ông không thuộc hạng
cùng đình nghèo khổ như anh
Pha, chị Dậu, cũng chẳng thuộc hàng
vai vế có “miếng” có
“tiếng”
trong làng. Ông chỉ là một người nông
dân nồng hậu, chất
phác, hay làm và chịu khó. Từ con
người của làng
quê, ông trở thành con người của
kháng chiến, của sự nghiệp
chung.
Ấn tượng đầu tiên
mà ông Hai để lại cho
người đọc
chính là cái tính khoe làng của ông. Dường như hình ảnh
ngôi làng luôn thường trực
trong tâm trí của lão nông ấy để khi
nói về nơi nuôi
dưỡng
mình, chốn quê thân thuộc “hai
con mắt ông sáng hẳn lên,
cái mặt biến chuyển, hoạt động".
Đặc biệt, ông
Hai khoe làng một cách nhiệt
thành. Ông không cần người khác
phải chú
ý lắng
nghe, cũng không quan tâm họ có
nghe hay không, ông chỉ nói để thỏa niềm tự hào,
nỗi nhớ da diết của mình
đối với
làng. Rồi qua từng thời kì
khác nhau, lời kể, lời khoe
của ông
cũng
thay đổi. Duy chỉ có
tình yêu làng của ông vẫn thế, cứ mãi vẹn
nguyên, vẹn toàn, không hề đổi thay
và cũng chẳng hề lay
chuyển.
Xa rời quê
hương, sống nhờ nơi đất
khách quê người, lòng ông đau đáu nhớ quê,
nhớ
làng.Ông hoài niệm về những năm
tháng được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào,
khuân đá... Ông Hai cảm thấy lúc ấy mình
trẻ trung
hẳn ra,
“cũng hát
hỏng,
bông phèng.” Càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ cứ như những đợt sóng
lòng dồn dập, vỗ nhẹ vào
trái tim ông phát ra những thanh âm chan chứa bao
nỗi triền miên
về những
ngày quá khứ : “Chao ôi, ông lão nhớ làng.
Nhớ cái
làng quá!”. Đằng sau nỗi nhớ ấy là
khao khát được trở về, là
tình yêu xóm làng chân thành, bất diệt.
Tình cảm ấy bao
giờ cũng thiêng
liêng, cũng dạt dào
và tha thiết. Vì nhớ, vì
yêu nên ông Hai vẫn thường
xuyên vào phòng thông tin nghe tình hình, tin tức
kháng chiến. Dọc đường đi, gặp ai
quen ông lão cũng níu lại, cười cười, ông
vui cả với cái
nắng
chang chang bởi Tây nó ngồi trong
vị trí
giờ bằng ngồi
tù.Ông phấn khởi trước những thắng lợi của
kháng chiến. Ruột gan
ông lão như múa cả lên
vì nghe được bao nhiêu tin hay, đáng mừng và đáng
khâm phục về những chiến công
của
làng. Quả đúng như Raxun
Gamzatov từng nói: “Người ta
chỉ có thể tách
con người ra khỏi quê
hương, chứ không
thể tách
quê hương ra khỏi con
người”.
Trong
lúc tâm trạng đang phấn khởi vì
những tin
tức
kháng chiến vừa nghe
được, ông
Hai gặp gỡ những người dưới xuôi
lên và nghe được cái tin làng Chợ Dầu theo
giặc từ một người đàn bà
tản cư.
"Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da
mặt tê
rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến
không thở được". Dưới ngòi
bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội tâm
của nhân
vật được miêu
tả đầy chân
thực qua
nét mặt và cử chỉ. Ông
lão bàng hoàng và sững sờ vô
cùng, dường như có một bàn
tay vô hình đang bóp nghẹt trái
tim ông. Lúc đầu ông không thể tiếp nhận được, ông
cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi
vọng cái
tin dữ kia chỉ là do
miệng đời đàm tiếu, giọng ông
như lạc hẳn:
"Liệu có thật
không hở bác. Hay là chỉ lại...".
Đối diện với những lời nói
chắc như đinh đóng cột rằng
làng ông "Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi",
bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về ngôi
làng mà ông luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ. Là
người làng
Chợ Dầu, ông
đâu còn
can đảm để ở lại mà
nghe những lời bàn
tán bủa vây mình. Ông vội vàng
ra về cùng câu nói tưởng chừng như chỉ bâng
quơ thốt lên
nhưng nó
lại
chính là cái cớ ông bám lấy để rời khỏi đây: "Hà,
nắng gớm, về
nào". Mảnh độc thoại ấy sao
mà cay đắng, xót xa như một sự trốn chạy thực tại tàn
nhẫn,
không muốn ai phát hiện ra
mình là người làng Chợ Dầu. Nếu trên
đường đi tới
phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại
"cúi gằm mặt mà đi".
Bởi cõi
lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan
thành từng mảnh,
trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua
xót, ô nhục và tủi
thân.
Mang
trong mình cả một khoảng trời
giông bão, cả một mối tơ lòng
hỗn độn, ông
Hai lê từng bước về nhà rồi lại
"nằm vật ra
giường"
chẳng còn
tâm sức để làm
gì cả. Nhìn lũ trẻ mà cảm xúc
dâng trào "nước mắt ông
lão giàn ra". Biết bao câu hỏi cứ đua
nhau xô đẩy, giằng xé
trong đầu ông :"Chúng nó cũng là
trẻ con
làng Việt gian đấy ư ?
Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng
hắt hủi đấy ư
?". Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã khắc họa
thành công nỗi lòng của ông
lão nông dân ấy. Ông Hai xót thương cho
số phận của
chính mình và đám trẻ non nớt mới mấy tuổi đầu. Bởi gia đình
ông là người làng Chợ Dầu nên đè nặng
trên những đôi vai
hao gầy và yếu ớt là bản án
mang tên "cái giống Việt gian
bán nước". Ông Hai căm phẫn lũ tội đồ phản nước theo
giặc. Tất cả như dồn nén
trong từng con chữ đanh
thép :"Chúng bay ăn miếng cơm hay
miếng gì
vào mồm mà đi làm
cái giống Việt gian
bán nước để nhục nhã
thế
này". Ông kiểm điểm lại từng người anh
em đã cùng
nhau đồng cam cộng khổ thuở trước, từng người con
của làng
Chợ Dầu.
Trong trí óc của ông, họ đều là
những người sung
sức,
tràn đầy tinh thần yêu
nước nồng
nàn. Giờ phút ấy, ông
Hai vẫn cố bám
víu chút giọt nắng
"niềm tin" giữa cơn đại hồng thủy dữ dội.
"Mà thằng chánh Bệu thì đích là
người làng
không sai rồi. Không có lửa làm
sao có khói ? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra
những
chuyện ấy làm
gì ?". Những dòng suy nghĩ đó cứ ồ ạt kéo đến đâm vào
trái tim ông, phủ phàn dập tắt ngọn lửa niềm tin.
Ông Hai bất lực chấp nhận cái
tin dữ ấy, nỗi đau xâm
chiếm linh
hồn, một nỗi đau
không lời nào tả xiết.
"Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng
Việt
gian". Đó là tiếng nói
thốt lên
từ một trái
tim bị tổn thương, từ một cõi
lòng suy sụp tột
cùng, từ niềm tự hào bị vùi dập tả tơi. Ông
đâu chỉ đau cho
mình, đau cho làng mà ông còn đau cho
những người đồng hương
cùng cảnh ngộ:"Lại còn
bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa,
không biết họ đã rõ
cái cớ sự này
chưa?".
Nỗi bứt rứt
trong tâm can của ông bị dồn nén
quá nhiều nên sinh gắt gõng
khi nói chuyện với bà Hải. Ông
Hai không muốn nghe ai nhắc đến chuyện tồi tệ đó,
không muốn ai sát muối vào
vết thương
trong lòng ông. Bủa vây ông là nỗi lo
trăm bề
"trằn trọc đến
không ngủ được", là tiếng thở dài bất lực làm
sao. Nỗi lo ấy hành
hạ cả tinh
thần lẫn thể xác
khiến
"chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không
cất lên được"
hay "trống ngực ông
lão đập thình thịch".
Như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, dân
ta từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi
đều ghét
cay ghét đắng, ghê tởm và
thù hằn bọn Việt gian
bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình
ông đi, dồn gia đình
ông vào thế cùng cưc, tuyệt đường đất sinh
nhai.
Từ khi
nghe tin làng theo giặc, ông Hai như người mất hồn. Ông
ăn
không ngon, ngủ không yên. Ông cảm thấy như mình
cũng là
kẻ có tội, lúc
nào cũng nơm nớp lo sợ trong
nỗi ám ảnh, tủi nhục ê chề. Ông
tuyệt giao
với tất cả mọi người,
“không bước chân ra đến
ngoài”. Ông rất sợ ai đó nhắc đến những tiếng
Tây, Việt gian, cam-nhông... Ông né tránh tất cả những gì
liên quan đến cái tin dữ dội kia
và gọi chuyện phản bội tồi tệ đó là
“chuyện ấy”. Bởi
chính ông chẳng dám và cũng chẳng đủ sức để nhìn
thẳng vào
thực tế đầy phủ phàng
và đau đớn. Ngẫm kĩ, đối với một lão
nông dân chất phác, chân lắm tay
bùn luôn tự hào và yêu làng tha thiết thì
cái tin làng theo giặc quả là một cú
trời
giáng chí mạng, là nỗi uất ức, nhục nhã
tột
cùng. Với ông Hai, làng không chỉ là nơi chôn
rau cắt rốn mà
còn là một thứ gì đó lớn lao
hơn, là
lòng tự tôn, là danh dự. Ông
và cái làng ấy đã trở thành
máu thịt, ông và làng là một,
danh dự của làng
cũng là
danh dự của ông.
Từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình
ông đi, ông Hai thực sự rơi vào
bế tắc.
Chính trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ông vào
tình thế là phải lựa chọn:
làng Chợ Dầu hay
Tổ quốc ?
Ông đã thoáng nghĩ đến việc
"Hay là quay về làng ?" để gia đình
ông có chỗ dung thân. Thuở trước,
làng Chợ Dầu của ông đáng
yêu, đáng tự hào lắm. Nhưng giờ đây chỉ nghĩ đến nó
là lòng ông đắng ngắt, đau
nhói từng hồi. Mới hôm
nào về làng là khao khát, là mong ước cháy
bỏng của ông
thế mà
bây giờ ông thấy rợn cả người và
phải dập tắt ngay
cái ý nghĩ đen tối đó. Bởi làng
giờ đã nối gót
theo Tây, "về làng tức là bỏ kháng
chiến, bỏ Cụ Hồ",
là cam chịu trở về với kiếp sống lầm
than, kiếp sống của những kẻ nô lệ. Dòng
máu Việt Nam anh hùng vẫn đang
không ngừng luân chuyển, đi qua
mọi ngõ
ngách trong trái tim ông. Tận sâu nơi cõi
lòng người nông dân ấy, ngọn lửa của tình
yêu nước cao cả vẫn đang rạo rực, vẫn hướng về cuộc
kháng chiến nên ông đã quyết định một cách
đau đớn nhưng dứt
khoát: "Làng thì yêu thật, nhưng
làng theo Tây mất rồi thì
phải
thù". Đứng trước sự lựa chọn khó
khăn, quyết định của ông
Hai đã khẳng định
tình cảm rạch ròi
của người nông
dân, tình yêu nước rộng lớn, mạnh mẽ và
thiêng liêng bao trùm lên tình cảm làng quê.
Trong
tâm trạng tồi tệ bị dồn nén
lâu ngày, ông Hai chỉ còn biết thả trôi
nỗi lòng
của mình
vào những lời thủ thỉ, tâm
sự với thằng con
út. Chỉ khi tâm sự cùng
con ông mới dám giãi bày hết thảy những rợn sóng
rầu rầu đang âm
ỉ trong
lòng. Ông hỏi con về làng,
để thỏa nỗi nhớ làng,
để khắc sâu
tình cảm cội nguồn nơi con.
Ông muốn con ghi nhớ
"Nhà ta ở làng Chợ Dầu"
cũng như muốn
chính mình không được quên Chợ Dầu là
quê hương, là gốc gác.
Phải chăng
chính ông vẫn còn yêu làng tha thiết,
tình cảm ấy vẫn mãi
ngự trị trong
trái tim ông. Ông hỏi con về Cụ Hồ - biểu tượng của cách
mạng để chứng
minh cho tấm lòng yêu nước, tấm lòng
thủy
chung với kháng chiến đã bám
chặt vào
mạch huyết. Đồng thời, ông
cũng muốn truyền cho
con, cho thế hệ sau
tình cảm cao đẹp,
thiêng liêng, nhân bản nhất của con
người:
Tình yêu làng và yêu nước.Cuộc đối thoại giữa hai
bố con
chỉ xoay
quanh chuyện làng và chuyện nước. Ông
nói với con, nhưng thực chất là lời từ vấn để vơi bớt nỗi
lòng, để minh oan cho tấm lòng
trong sạch của
mình, mong "Anh em đồng chí biết cho
bố con
ông. Cụ Hồ trên đầu trên
cổ xét
soi cho bố con ông". Ta chợt nhớ đến câu
thơ của Trần Đăng
Khoa trong trường ca “Khúc hát người anh
hùng”: “Người ta
trong lúc hiểm nghèo Hoặc vằng vặc sáng
hoặc heo
hút tàn.”
Ông
Hai đã ngời sáng
với những nét
đẹp
trong tâm hồn người nông
dân, nét đẹp chung hòa giữa tình
yêu làng và lòng yêu nước.
Bước qua
biết bao
ngưỡng cửa cảm xúc
buồn vui
lẫn lộn, từ hi vọng đến tuyệt vọng, từ hãnh
diện tự hào đến khổ đau tủi nhục, đêm đen đã qua,
nhường chỗ cho
những rạng đông
phía cuối chân trời. Cái
tin làng cải chính đã đến với ông
Hai. Ông như được hồi sinh
một lần nữa, rủ sạch được hết thảy sự dằn vặt, nhục nhã,
đau khổ bấy lâu,
"cái mặt buồn thỉu mọi ngày
bỗng tươi vui,
rạng rỡ hẳn
lên". Ông trở lại với
"thói quen" cũ của
mình, lật đật đi khoe
khoang khắp nơi rằng: "Tây
nó đốt nhà
tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông
chủ tịch
làng em vừa lên cải
chính...cải chính cái tin làng Chợ Dầu
chúng em Việt gian ấy mà.
Ra láo ! Láo hết, chẳng có
gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả".
Sách "Bình giảng văn học
9" có viết :" Có lẽ chưa có
ai trên đời lại đi khoe
cái sự "Tây nó đốt nhà
tôi rồi. Đốt nhẵn
"một cách hả hê
sung sướng thật sự như ông
". Đối với người nông
dân, ngôi nhà là tài sản lớn lao,
là biết bao tháng ngày cày cuốc mà
nên, là nơi chan chứa bao
hồi ức vui
buồn. Vậy vì cớ gì mà
ông Hai lại lấy làm
vui mừng trước sự mất mát
của ngôi
nhà ? Bởi quân Tây đốt nhà
ông nghĩa là làng ông không hề theo
giặc mà vẫn một lòng
yêu nước nồng
nàn, ủng hộ kháng
chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Ông đã có
thể thoát
khỏi cái
danh "người làng Việt
gian", được sống như một người yêu
nước,lại có
thể tiếp tục sự khoe
khoang đáng yêu của
mình. Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp tình
hợp lý, đó
chính là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi
bút miêu tả tâm lý nhân vật. Ông
Hai còn dự định nuôi lợn ăn mừng, niềm vui
sướng tưởng như vỡ òa,
như những
thanh âm vang vọng cả phần kết truyện.
Không khó để nhận ra với những người nông
dân thật thà, chất
phác, họ thà hi sinh thửa ruộng, mảnh vườn hay
gian nhà chứ nhất định
không để cho danh dự và tự tôn của
mình, của làng và của Tổ quốc bị vấy bẩn.
Với thứ hương thơm tỏa ra từ đoá hoa
mang tên "Nghệ thuật"
của
thiên truyện, với ánh
chiếu của ngòi
bút đa tài, Kim Lân đã khiến người đọc phải nguyện ý thả hồn vào
trang viết, phải dùng
trái tim để cảm nhận nét đẹp của từng con
chữ. Xây
dựng
tình huống truyện độc đáo là
một
trong những yếu tố góp
phần đem lại sự thành
công cho tác phẩm "Làng", giúp nhà văn khắc họa rõ
nét phẩm chất,
tính cách, khả năng ứng xử của nhân
vật đồng thời bộc lộ sâu sắc
khuynh hướng tư tưởng của
mình. Bên cạnh đó, việc miêu
tả chân
thực, cụ thể nét mặt, giọng
nói, cử chỉ, hành
động cũng góp
phần xây
dựng
thành công chân dung nhân vật ông Hai. Kim Lân đã thật tài
tình khi sử dụng
hàng loại câu cảm, câu
hỏi nối tiếp nhau
trong nghệ thuật độc thoại nội tâm
như xé đôi
lòng người để đặc tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến
thành sự nơm nớp lo sợ, nỗi đau
xót, xấu hổ, nhục nhã.
Ngôn ngữ trong truyện mang
tính khẩu ngữ, là
những lời ăn tiếng nói
hằng
ngày, giản dị, chân
chất của người nông
dân Bắc Bộ. Tóm
lại, thi
pháp truyện ngắn bao
gồm các
yếu tố như nhân
vật,
ngôn ngữ, tình huống
truyện... Và "Làng" thành công trên mọi phương diện ấy. Kim
Lân không nói nhiều, tả nhiều nhưng cũng đủ cho
ta thấy những bước ngoặc
trong diễn biến tâm
lí của ông Hai.
Nhà văn Nguyễn Khải từng khẳng định:
"[...]Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là
cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái
thủy
chung”. Linh hồn ta phiêu lưu nơi gánh
sách của Kim Lân, cõi lòng ta say đắm
trong hơi thở bất diệt của
thiên truyện "Làng", nhịp đập của người thưởng văn hòa
cùng nhịp đập của lão
Hai, từ ấy ta tìm ra "thanh nam châm" của văn chương dưới một danh
xưng khác
là "Lòng yêu quê hương và tình yêu Tổ quốc".
"Nét thần" của tác
phẩm là mạch
tình cảm hoà quyện, thống nhất
trong trái tim người nông dân, tựa như
"toà thành" hiên ngang, sừng sững và
bất diệt đến nổi chẳng có
súng đạn nào có thể công
phá, chẳng có ngọn lửa tàn
ác nào có thể thiêu rụi.
Tình cảm dành cho quê hương, đất nước đã nghiễm
nhiên trở thành nguồn
"thần hứng"
của biết bao
thi phẩm. Ví như
"Sao chiến thắng"
của Chế Lan
Viên:
"Ôi
Tổ quốc ta,
ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha
ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta
chết
Cho mỗi ngôi
nhà, ngọn núi, con sông..."